Đột biến gene gây trên 20 loại ung thư di truyền
GS.TS Nguyễn Bá Đức, nguyên phó chủ tịch Hội Ung thư Việt Nam cho biết, một số loại ung thư có thể di truyền. Trong đó hai loại có tính di truyền rõ rệt nhất là ung thư nguyên bào võng mạc mắt là loại xảy ra ở trẻ nhỏ và ung thư tuyến giáp thể tủy. Các loại ung thư khác ở trẻ em bao gồm Wilm (một loại ung thư của thận).
Các yếu tố di truyền có thể mang trực tiếp như các gene gây ung thư, cũng có thể gián tiếp nhưng tạo điều kiện cho các nguyên nhân khác gây ung thư. Một ví dụ là tiếp xúc với ánh nắng mặt trời gây ung thư da nhưng chủng tộc da trắng dễ bị mắc bệnh hơn những người da đen.
Bác sĩ Nguyễn Xuân Tuấn, Bệnh viện Ung bướu Hưng Việt, cho hay ung thư là kết quả quá trình tích lũy đột biến trên nhiều gene. Phần lớn các đột biến này xảy ra khi tiếp xúc tác nhân sinh ung thư từ môi trường bên ngoài, phần còn lại do di truyền từ thế hệ trước.
Khi sự đột biến xảy ra ở gene sinh ung thư, gene ức chế khối u hoặc cả hai sẽ gây rối loạn về cấu trúc và chức năng của tế bào. Chúng tăng sinh, phát triển không có sự kiểm soát, dần dần sẽ hình thành khối u.
Mặc dù ung thư là căn bệnh phổ biến, nhưng chỉ có khoảng 5-10% trong số đó là di truyền. Các đột biến di truyền (còn gọi là đột biến dòng mầm, đột biến germline) thường phát sinh từ tế bào tinh trùng hoặc trứng (tế bào mầm).
Sau khi biệt hóa và phân chia, đột biến này tồn tại trong mọi tế bào, cơ quan của cơ thể và đồng thời có khả năng di truyền cho thế hệ sau với xác suất khoảng 50%.
Đột biến mắc phải chỉ xảy ra ở một tế bào nhất định nào đó sau phơi nhiễm (ví dụ tế bào biểu mô của phổi ở người hút thuốc lá), gây bệnh tại cơ quan đó và không có tính chất di truyền.
Các nhà nghiên cứu phát hiện có khoảng trên 20 loại ung thư có tính di truyền trong gia đình như ung thư buồng trứng, ung thư dạ dày, ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư đầu và cổ, u nguyên bào thần kinh đệm, ung thư phổi – màng phổi, ung thư nội mạc tử cung, bệnh bạch cầu cấp dòng tủy…
Các đột biến gene có thể di truyền theo một số cách khác nhau. Mỗi người có 2 bản sao của mỗi gen, một có nguồn gốc từ bố, một có nguồn gốc từ mẹ; đồng thời mỗi bản sao gen truyền cho con cái với xác suất 50%.
Đối với di truyền gene trội, có thể chỉ cần nhận một bản sao gene đột biến là đã tăng nguy cơ phát triển ung thư. Ví dụ các đột biến gene gây hội chứng Lynch làm tăng nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng không polyp; đột biến gene APC gây bệnh đa polyp đại trực tràng gia đình… phần lớn là các đột biến gene trội.
Còn đối với đột biến gene lặn, cần có cả hai bản sao đột biến mới gây bệnh, ví dụ gene BRCA1/2 trong ung thư vú, buồng trứng ở nữ; ung thư tụy, tuyến tiền liệt ở nam.
Trong hơn 20 bệnh ung thư khởi phát từ các đột biến di truyền, một số các loại ung thư có nguy cơ di truyền cao là ung thư buồng trứng, ung thư đại trực tràng, ung thư dạ dày, ung thư vú…
Khoảng 5% bệnh nhân ung thư đại trực tràng có yếu tố di truyền về gene với hai hội chứng hay gặp là hội chứng Lynch và hội chứng đa polyp đại trực tràng gia đình. Còn với phụ nữ, ung thư vú là bệnh có khuynh hướng di truyền rõ ràng.
Các bà mẹ bị ung thư vú thì con gái cũng có nguy cơ mắc bệnh này cao gấp 2-3 lần so với trường hợp khác. Thậm chí, rủi ro khởi phát ung thư vú ở con gái còn tăng cao hơn nhiều trong trường hợp mẹ mắc bệnh trước tuổi mãn kinh.
Ai cần tầm soát sớm?
Bác sĩ Tuấn phân tích khả năng di truyền của các loại ung thư không giống nhau. Tùy từng loại ung thư mà thời gian phát bệnh cũng khác nhau, có thể trẻ hoặc trung niên, cao tuổi.
Mỗi cha hoặc mẹ mang đột biến gene gây bệnh sẽ truyền cho con cái của họ đột biến này với xác suất 50%. Tuy nhiên không thể khẳng định những người con này sẽ chắc chắn phát sinh ung thư.
ThS Trần Đức Cảnh, khoa nội soi và thăm dò chức năng – Bệnh viện K cho biết hiện nay người ta đã phân lập được các gene ung thư, gene này thường có các gene tiền thân được gọi là tiền gene ung thư. Khi có tác nhân tác động, hoạt hóa có thể biến thành gene ung thư.
Từ đó gene ung thư mã hóa sản xuất các men, protein liên quan đến quá trình phân chia và biệt hóa tế bào theo xu hướng ác tính. Một loại gene khác là gene ức chế sinh ung thư. Khi vắng mặt một đột biến các gen này, bệnh ung thư có cơ hội phát triển.
Câu hỏi quan trọng là: Bạn có nguy cơ cao mắc ung thư không, loại ung thư gì, tỉ lệ là bao nhiêu nên tầm soát theo dõi như thế nào, hãy để các chuyên gia ung thư di truyền tư vấn chi tiết qua thăm khám, hỏi bệnh và thực hiện các xét nghiệm gen di truyền.
Các chuyên gia cảnh báo, hiện nay, ung thư đang có xu hướng trẻ hóa. Những người trẻ tuổi phát hiện mắc ung thư ngày càng nhiều. Đây là nhóm nên tầm soát xem bệnh ung thư của họ có phải do đột biến gene di truyền hay không.
Những người có thể thực hiện xét nghiệm gene để phát hiện có mang gene ung thư di truyền theo American Cancer Society (Mỹ) bao gồm:
– Có một số người thân trực hệ một (mẹ, cha, chị em, anh em, con cái) bị ung thư.
– Nhiều người thân của một bên gia đình bạn đã mắc cùng một loại ung thư.
– Một nhóm bệnh ung thư trong gia đình của bạn có liên quan đến một đột biến gene đơn lẻ (chẳng hạn như ung thư vú, buồng trứng, đại trực tràng và tuyến tụy).
– Một thành viên trong gia đình mắc hơn một loại ung thư.
– Các thành viên trong gia đình bị ung thư ở độ tuổi trẻ hơn bình thường đối với loại ung thư đó.
– Họ hàng gần bị ung thư có liên quan đến hội chứng ung thư di truyền.
– Một thành viên trong gia đình mắc bệnh ung thư hiếm gặp, chẳng hạn như ung thư vú ở nam giới hoặc u nguyên bào võng mạc (một loại ung thư mắt), ung thư ở cả hai bên cơ quan theo cặp (ung thư vú cả hai bên…)
– Một hoặc nhiều thành viên trong gia đình đã làm xét nghiệm di truyền phát hiện đột biến.
Để ngăn ngừa ung thư di truyền, với người có tiền sử gia đình có nguy cơ nên chủ động tầm soát sớm, định kỳ. Với nhóm nguy cơ cao, việc sàng lọc di truyền giúp họ kịp thời phát hiện bản thân có mang gene gây bệnh hay không và có biện pháp điều trị phù hợp.
Ba dấu hiệu lâm sàng gợi ý một gia đình có nguy cơ di truyền bệnh ung thư bao gồm:
– Tiền sử gia đình có nhiều người thân ở nhiều thế hệ cùng mắc một loại ung thư.
– Tuổi khởi phát sớm so với tuổi trung bình mắc bệnh.
– Nhiều khối u nguyên phát: một người mắc cùng lúc nhiều loại ung thư hoặc ung thư xảy ra ở các cơ quan theo cặp (như hai mắt, hai thận hoặc hai vú)…
Những gia đình có tiền sử mắc các bệnh ung thư di truyền như ung thư vú, ung thư dạ dày, ung thư buồng trứng… được khuyến khích chủ động tầm soát bệnh ung thư sớm.
Các bệnh ung thư phát hiện giai đoạn đầu có khả năng điều trị hiệu quả hơn hoặc chữa khỏi hoàn toàn.